trực tuyến [TRỰC TIẾP] "4 thứ khó có được ở đời" | Thầy Thích Trúc Thái Minh, ngày 08/11 Canh Tý
Giới thiệu Tin tức Bài viết Pháp âm Nghi lễ Câu lạc bộ Câu chuyện chuyển hóa Tu học của Tăng chúng Truyện tranh Phật giáo Giải đáp thắc mắc Videos Thư viện ảnh Đăng ký khóa tu Tam Tạng Kinh - Luật - Luận
Mi Lan Đà: Từ vị đế vương bức bách chánh Pháp đến người học đạo khiêm cung

Trong lịch sử Phật giáo, đã xuất hiện một cuộc vấn đáp vô tiền khoáng hậu được xem là dấu mốc rạng ngời của chánh Pháp, đó chính là cuộc đối thoại giữa hai bậc trí - vua Mi Lan Đà và Tỳ-kheo Na Tiên. 

Vua Mi lan Đà là một vị vua uyên bác, kiêu hùng bậc nhất trong cõi châu Diêm Phù Đề thời ấy, đã từng dùng tài biện luận sắc bén để bức bách các vị Sa-môn, Bà-la-môn khiến Phật giáo một thời bị lung lay, chao đảo. Thế nhưng, trước kiến thức thâm sâu, quảng kiến của Na Tiên Tỳ-kheo, tâm kiêu mạn và cố chấp nơi đức vua Mi Lan Đà dần được chuyển hóa. 

Từ những câu hỏi chất chứa nghi hoặc, sâu rộng cho đến lời giải đáp nhuần nhị, khúc chiết; cuộc đối thoại giữa hai bậc tài cao đức trọng đã vang vọng khắp cõi nhân gian, khiến đất trời rúng động, chư Thiên trên hư không hoan hỷ rải hoa cúng dường, ca ngợi công đức trí tuệ vô song của hai bậc hiền triết. Và chính cuộc vấn đáp lịch sử này, đã làm sáng tỏ chân lý Phật đà cho hàng hậu học, giúp chánh Pháp được xiển dương và mở ra nhân duyên cho sự ra đời của bộ kinh bất hủ - kinh Mi Tiên Vấn Đáp.

Vua Mi Lan Đà và sự khởi duyên của bộ kinh Mi Tiên Vấn Đáp

Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp có ghi lại lời Đức Phật huyền ký rằng: Sau 500 năm Như Lai nhập diệt sẽ có một vị vua tên là Mi Lan Đà. Ông có nhiều phước duyên thù thắng đã tạo ra từ xưa, dùng những câu hỏi cao siêu, vi tế, sắc bén bởi năng lực trí tuệ của mình để vấn đạo, bức bách các Sa-môn, Bà-la-môn khiến họ phải lẩn trốn vào rừng sâu núi thẳm.

Khi ấy sẽ có một vị Tỳ-kheo tên là Na Tiên dùng trí tuệ siêu phàm, giải đáp dễ dàng những câu hỏi sâu rộng của vua Mi Lan Đà bằng nhiều cách: phân tích thiện xảo, ví dụ sinh động, cụ thể làm cho bậc minh quân vô cùng hài lòng. Nhờ vậy, Pháp và Luật của Như Lai đã không lu mờ, mà trái lại, càng thêm tỏ rạng, được trân trọng bảo lưu, truyền thừa trên thế gian lâu dài.

Đức Phật huyền ký rằng, 500 năm sau khi Thế Tôn nhập diệt, sẽ xuất hiện vua Mi Lan Đà và Tỳ-kheo Na Tiên (ảnh minh họa)

Quả thật, cuộc vấn đáp của hai bậc tài đức chứa chan sự thật, triết lý, tư tưởng và cả những ý nghĩa nhiệm mầu; tiếp nối được ngọn đèn Pháp Bảo giữa cõi mê đồ, vọng tưởng. Sự tranh biện và lập luận minh bạch, khúc chiết của hai Ngài có sức hấp dẫn phi thường, làm cho người nghe, người đọc phát sanh hỷ lạc chưa từng có. 

Và cuộc đối thoại vô tiền khoáng hậu của hai bậc tài cao đức trọng cũng chính là nhân duyên ra đời bộ kinh Mi Tiên Vấn Đáp.

Giới thiệu vua Mi Lan Đà

Tiền kiếp của vua Mi Lan Đà

Vào thời Đức Phật Ca Diếp, có một vị vua tên là Vi-di-ta-vi trị vì nước Sa-ga-la. Nhà vua là người hiền đức, dùng thiện pháp để cai trị đất nước. Ông cũng là người yêu kính Phật Pháp nên đã cho xây chùa để hộ độ Tăng đoàn tu hành. 

Tại ngôi chùa do vua xây dựng, có hai vị tu sĩ: một vị là Thầy Tỳ-kheo tinh nghiêm giới hạnh, chăm chỉ tu hành, quét dọn chùa chiền; người còn lại là chú Sa-di siêng năng, thường phụ việc quét rác.

Một hôm, vị Tỳ-kheo gọi chú Sa-di đến hốt rác nhưng chú sanh tâm lười biếng, gọi ba lần không thưa, đã phạm lỗi trong giới luật. Vị Tỳ-kheo đi đến, dùng cán chổi đánh chú khá đau. Chú Sa-di vừa khóc, vừa hốt rác, lòng ấm ức vô cùng. Công việc xong xuôi, chú phát nguyện rằng:

- Với phước báu đổ rác này, nếu chưa đắc được Niết bàn, dù sanh vào cảnh giới nào, cũng xin cho tôi có đầy đủ quyền cao, chức trọng mà oai lực của tôi sẽ thù thắng hơn tất cả mọi người, như mặt trời vĩ đại ở giữa hư không kia vậy.

Sau đó, khi xuống sông tắm, chú Sa-di hối hận, nhận ra thầy đánh mình là để trừ tính lười biếng và cứng đầu. Nhận thấy tâm bất thiện và sự u mê của mình, chú liền phát đại nguyện lần nữa:

- Vì thiếu trí tuệ mới sinh lười biếng, cứng đầu, sinh những nhận thức sai lầm, nông nổi. Với tất cả những phước đức tu tập của tôi, phước đức đổ rác bấy lâu nay, phước đức thấy mình lầm lỗi, xin nguyện rằng: nếu chưa đắc quả Niết bàn, hãy cho tôi được trí tuệ vô biên vô lượng như những làn sóng vô tận của con sông này.

Vị Tỳ-kheo khi đó đứng trên bờ, nghe được lời nguyện đầy quyết tâm ấy, nhận thấy Sa-di là người có căn lành, lời nguyện chắc chắn thành tựu. Song Thầy cũng lo ngại rằng, với bản tánh kiêu mạn tiềm ẩn, nếu trí tuệ Sa-di trở nên vô biên, e không ai có thể chế ngự. Thầy cũng chắp tay hướng lên hư không và phát lời đại nguyện:

- Với tất cả mọi công đức tu tập của tôi, công đức quét rác bao nhiêu năm, nếu tôi chưa đắc quả Niết-bàn, xin cho tôi được thành tựu trí tuệ bất khả tư nghì. Trí tuệ ấy phải đầy đủ năm tính chất sau đây:

1. Nhiều như sóng của con sông đại Hằng.

2. Vững chắc và kiên định như hai bờ của con sông này.

3. Thấy rõ gốc ngọn tất cả các Pháp.

4. Quang minh, sáng sủa.

5. Quảng bác, thâm sâu, sắc bén.

Mong nhờ trí tuệ bất khả tư nghì ấy, có thể kiềm chế, phá nghi, soi rọi, dẫn dắt chú Sa-di đi đến nơi giác ngộ, giải thoát.

Trải qua nhiều kiếp, cả hai đều sinh làm người, làm trời do công đức tu tập và đến kiếp này, chú Sa-di xưa tái sinh thành vua Mi Lan Đà; vị Tỳ-kheo giờ là Tỳ-kheo Na Tiên - người sau này đối luận với vua Mi Lan Đà.

Vị Tỳ-kheo biết được đại nguyện của chú Sa-di sẽ thành tựu (ảnh minh họa)

Cuộc vấn đáp hàm chứa những câu nghi vấn sâu rộng, trí tuệ; có thể ví như trình độ của Phật. Thế nhưng, Tỳ-kheo Na Tiên đã giải đáp rất minh bạch, rành rẽ, khúc chiết bởi trí tuệ vô song của Ngài.

Những câu hỏi rộng của vua Mi Lan Đà đã được Ngài Na Tiên giải đáp khúc chiết, rành rẽ (ảnh minh họa)

Phẩm chất của vua Mi Lan Đà và sự hùng mạnh của quốc độ

Mi Lan Đà là người gốc Hy Lạp, xuất thân là một viên đại tướng lừng danh vô địch, thao lược bách chiến bách thắng, bá quyền từ lưu vực sông Hằng đến các bờ cõi miền Đông, từ cửa sông miền Nam giáp biển đến tận chân Hy Mã Lạp Sơn. Sau này, ông được kế vị làm vua, đóng đô tại kinh thành Sa-ga-la - vùng đất nằm ở thượng lưu năm con sông, dưới chân Hy Mã Lạp Sơn với núi non hùng vĩ bao quanh, sông dài uốn khúc tạo nên khung cảnh xinh tươi, trù phú và thịnh mậu. 

Vua Mi Lan Đà là người gốc Hy Lạp, xuất thân là một viên đại tướng lừng danh vô địch (ảnh minh họa)

Kinh thành Sa-ga-la thời vua Mi Lan Đa trị vì được hưởng phước vô cùng sung sướng. Đường sá quy củ, cung điện huy hoàng, dân chúng no đủ, quốc khố giàu có, đời sống hoàng gia xa hoa như cõi trời. Đất nước hùng mạnh, phồn vinh như vậy, còn hoàng cung luôn được bảo vệ nghiêm ngặt, khiến không một thế lực nào dám xâm phạm, quấy nhiễu và manh tâm chiếm đoạt.

Vua Mi Lan Đà cũng là người có sức học uyên thâm, tài cao, trí lớn, và được quần chúng tôn sùng, ngưỡng mộ bởi đạo đức lớn. Ông còn được mệnh danh là:

- Đệ nhất về của cải, tài sản.

- Đệ nhất về quân binh như voi, ngựa, xe lớn hùng mạnh.

- Đệ nhất về trí tuệ.

- Đệ nhất về học giả, bác học.

- Đệ nhất về thông minh.

- Đệ nhất về sức mạnh, quyền uy.

- Đệ nhất về giọng nói trầm hùng, êm dịu.

- Đệ nhất về hiểu biết các tôn giáo, nhất là Phật giáo.

- Đệ nhất làm chủ trí thức và cảm xúc của mình.

Ngoài ra, đức vua còn nghiên cứu thấu đáo và rất giỏi trong 18 môn học, đó là:

1. Học tiếng muôn thú để đoán định tốt xấu, lành dữ

2. Học về đất đai, núi non, thảo mộc

3. Toán học

4. Biết rõ tất cả các nghề thợ

5. Võ học

6. Triết học, thắng luận

7. Thiên văn

8. Âm nhạc

9. Y khoa

10. Nghệ thuật bắn cung

11. Khảo cổ học

12. Lịch sử, truyện tích, khẩu ngữ

13. Khoa tử vi

14. Rành rẽ về phân kim (biết vàng ngọc thật, giả)

15. Học về vật lý

16. Học về chăn nuôi, nông nghiệp, làm vườn

17. Binh pháp

18. Văn học: sử truyện nhân gian, cú pháp, thể luật, văn thơ,...

Toàn cõi châu Diêm Phù Đề khó tìm ra một nhân vật trí tài như vậy.

Sự kiêu mạn và tàn bạo của đức vua khiến Phật giáo bị đàn áp

Vua Mi Lan Đà là người có học thức, hiểu biết Phật Pháp nhưng lại ngạo mạn, cứng đầu, khoe khoang và tàn bạo khét tiếng trong lịch sử Phật giáo. Nhà vua ra lệnh truy đuổi, bức bách chư Tăng, khiến nhiều vị phải hoàn tục hoặc lẩn trốn vào rừng sâu núi thẳm. 

Tuy nhiên, nhờ có duyên gặp được Tỳ-kheo Na Tiên, tính kiêu mạn ấy của nhà vua được giảm trừ. Qua nhiều năm đối thoại và học hỏi giáo Pháp từ Đại đức Na Tiên, tâm kiêu mạn, tính cứng đầu và thói khoe khoang của nhà vua đã hoàn toàn được chuyển hóa. Ông trở nên khiêm cung, trí tuệ và hướng thiện hơn.

Nhờ học hỏi giáo Pháp của Na Tiên Tỳ-kheo mà đức vua Mi Lan Đà dần trở nên khiêm cung, hướng thiện (ảnh minh họa)

Vua Mi Lan Đà quy y Phật và xuất gia

Khi cuộc vấn đáp giữa Ngài Na Tiên và vua Mi Lan Đà chấm dứt, ngay lúc ấy, phát sanh hiện tượng phi thường: quả địa cầu dày bốn mươi do tuần rung động, rung chuyển dữ dội, sấm chớp ở lưng trời xẹt chiếu khắp các hướng. Trên hư không, chư Thiên rải hoa cúng dường. Trời đại Phạm Thiên phát tâm hoan hỷ, không hết lời ca ngợi, tán dương. Sóng giữa biển khơi dâng lên cao, ì ầm không ngớt.

Sau đó, vua Mi Lan Đà đã xin Ngài Na Tiên được y Tam Bảo. Đại đức Na Tiên im lặng nhận lời, trao truyền quy giới cho đức vua.

Ngài Na Tiên truyền giới quy y cho đức vua Mi Lan Đà (ảnh minh họa)

Thời gian sau, đức vua Mi Lan Đà cho kiến tạo một ngôi chùa, lấy tên là Mi Lan Đà dâng cúng đến Đại đức Na Tiên. Kể từ đó, chư Tăng mười phương vân tập về chùa này rất đông và đức vua là người hết lòng phục vụ, hộ độ Tăng già đầy đủ.

Càng ngày dường như giáo Pháp cao thượng càng thấm sâu vào đời sống, đức vua cảm thấy không còn thích thú đến vương vị phú quý hay quyền lực nữa. Ngài thấy thật rõ rằng thế gian quả là thấp thỏi, hạ liệt, con người hằng tìm cho mình những thú vui ngũ dục tầm thường, ở đâu cũng vô thường, khổ não và vô ngã. Nơi nào cũng quanh quẩn lui tới trong luân hồi, sinh tử.

Ngài bèn truyền ngôi cho hoàng tử để có đủ thì giờ chiêm nghiệm giáo Pháp nhiệm màu. Một đêm kia, đức vua Mi Lan Đà lặng lẽ rời bỏ hoàng cung, đổi hoàng bào, lấy chiếc áo của người khất sĩ tìm đường xuất gia. Sau đó, sống đời không nhà cửa của một vị Sa-môn chân chính.

Vốn đã trang bị cho mình một Pháp học uyên thâm, vị Sa-môn này không mấy khó khăn khi chuyển qua Pháp hành. Nhờ sự tinh cần, kiên trì tiến tu chỉ tịnh quán minh, không bao lâu sau Ngài đắc quả giải thoát Bảo Cái Trắng, làm cho tỏ ngộ Niết bàn, thành bậc A La Hán vô song.

Tỳ-kheo Mi Lan Đà tinh tiến tu hành, dần trở thành bậc A La Hán vô song (ảnh minh họa)

Trên đây là những phân tích của Thầy Thích Trúc Thái Minh về vua Mi Lan Đà. Qua bài viết trên chúng ta thấy rằng, cuộc đối thoại giữa Đại đức Na Tiên và vua Mi Lan Đà chính là công đức Ba La Mật của các Ngài, vì lòng thương tưởng đến chúng sinh thời mạt pháp nhiều tà kiến, tham dục mà khởi lên nghi ngờ giáo Pháp của Như Lai. Bởi vậy, tất cả sự tranh biện và lập luận minh bạch, khúc chiết của hai bậc tài đức đã phá trừ nghi hoặc cho chúng sinh, khiến mọi người phát sinh căn lành. 

Bên cạnh đó, cuộc vấn đáp còn khẳng định được giá trị cứu khổ của Phật Pháp và trí tuệ của Đức Phật. Cho nên, chúng ta phải vâng lời Phật dạy, tinh tấn tu hành để vững bước trên con đường giải thoát, đạt được hạnh phúc tối thượng.