trực tuyến [TRỰC TIẾP] "4 thứ khó có được ở đời" | Thầy Thích Trúc Thái Minh, ngày 08/11 Canh Tý
Giới thiệu Tin tức Câu lạc bộ - Đạo tràng Nghi lễ Pháp âm Bài viết Thư viện kiến thức Tu học của Tăng chúng Khóa tu mùa hè Câu chuyện chuyển hóa Giải đáp thắc mắc Videos Thư viện ảnh
Kệ hoài niệm về cuộc đời Trần Nhân Tông - “Ngọn lửa” tri ân được thắp sáng từ nơi chư Tăng, Phật tử chùa Ba Vàng

Kỷ niệm 713 năm Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn, được sự chỉ dạy trên Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh, ngày 29/10/Tân Sửu, chùa Ba Vàng tổ chức chương trình “Lễ tưởng niệm Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn lần thứ 713 (01/11/1308 – 01/11/2021)”. Để tưởng nhớ cuộc đời và công lao to lớn của Phật hoàng, từ đó khơi dậy “viên ngọc” biết ơn và đền ơn trong tâm mỗi chúng ta.

Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh và chư Tăng đồng tụng kệ hoài niệm về cuộc đời Sơ tổ để tưởng nhớ ân đức của Ngài.

Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh và chư Tăng đồng tụng kệ hoài niệm về cuộc đời Sơ tổ để tưởng nhớ ân đức của Ngài.

Hòa chung dòng chảy của tâm kính ơn, Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh cùng chư Tăng chùa Ba Vàng đã đồng tụng bài kệ mang tên “Kệ hoài niệm về cuộc đời Trần Nhân Tông”.

Với thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc cùng giọng tụng xúc cảm của chư Tăng đã tạo nên âm hưởng vô cùng nhịp nhàng, sâu lắng, chắc hẳn sẽ để lại ấn tượng trong lòng người nghe. Đồng thời, chỉ với 165 dòng kệ hoài niệm nhưng đã khái quát một cách đầy đủ, chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp hoằng Pháp lợi sinh của vị vua Phật Việt Nam. Từ đó cho chúng ta thấy được tấm lòng kính mộ, tri ân sâu sắc của chư Tăng, Phật tử chùa Ba Vàng dâng lên tới Ngài.

Toàn cảnh buổi tụng kệ hoài niệm về cuộc đời Sơ Tổ Trần Nhân Tông của chư Tăng chùa Ba Vàng

Toàn cảnh buổi tụng kệ hoài niệm về cuộc đời Sơ Tổ Trần Nhân Tông của chư Tăng chùa Ba Vàng

Các Phật tử chùa Ba Vàng cũng đồng tụng kệ hoài niệm thể hiện tấm lòng tri ân tới Phật Hoàng Trần Nhân Tông

Các Phật tử chùa Ba Vàng cũng đồng tụng kệ hoài niệm thể hiện tấm lòng tri ân tới Phật Hoàng Trần Nhân Tông

Dưới đây là bài kệ “Kệ hoài niệm về cuộc đời Trần Nhân Tông”, mời quý vị cùng theo dõi:

“Hoàng hậu chỉ tịnh đêm xuân,

Chiêm bao trông thấy thần nhân một người.

Cao như thiên sứ nhà Trời,

Trao cho lưỡng kiếm, có lời bảo hay.

Hoàng Hậu sực thức đêm chầy,

Thấy điềm sự lạ tâu bày Thánh Tông.

Lòng vua thấy vậy cực mừng,

Bàn xem tướng mộng: “Ấy Trời hộ ta”.

Từ ngày chiêm bao đã qua,

Hoàng Hậu thai thụ nét hòa tốt tươi.

Mãn nguyệt đầy tháng xuất thai,

Mình vàng kim sắc tướng người lạ thay.

Vua Cha thốt bảo thế này:

“Hai ta có đức, sinh ngay Bụt vàng.”

Thuật sĩ xem tướng đoán lường tương lai:

Thái tử trí dũng hơn người,

Gánh việc đại khí làm thầy mười phương.

Cha mẹ dưỡng dục yêu thương,

Đặt hiệu là Điều Ngự Vương cho chàng. 

Tuổi mới mười sáu vững vàng,

Vua cha định liệu thăng ngôi cửu trùng.

Điều Ngự hai phen tâu rằng:

Xin cho em được trị vì thay anh.

Thái Tử lòng muốn tu hành,

Nhìn xem phú quý tâm tình dửng dưng.

Tuy ở điện bệ Đông Cung,

Lòng hằng chỉ nhớ tông phong nhà thiền.

Đêm khuya bóng nguyệt cài hiên,

Chiêm bao xảy thấy hoa sen mọc bày.

Có người chỉ bảo điềm này:

“Gẫm thấy Thái tử từ rầy có duyên.

Ấy là Phật báu hoa sen”,

Thái tử từ ấy chăm chuyên tu trì

Ngày đêm mài miệt khoa nghi

Vua cha xem thấy, tức thì hỏi con.

Thái Tử quỳ lạy tâu van,

Thánh Tông nước mắt hòa chan dòng dòng.

“Ai hầu nối nghiệp Tổ tông?

Tuổi cha già cả con lòng khá thương.”

Thái Tử nước mắt đượm nương,

Phụ mẫu ức tử cảm thương thay là!

Học Đạo báo ơn mẹ cha,

Đêm ấy Thái Tử vượt ra kinh thành.

Tìm lên Yên Tử một mình,

Đến núi Đông Cứu, thiên minh rạng ngày.

Tăng tự thấy tướng lạ thay,

Làm bữa cơm thết cúng ngay cho chàng.

Nguyên Thánh liền tâu Minh Quân,

Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây.

Tìm đòi Thái Tử chớ chầy,

Khuyên về nối nghiệp, tỏ bày tỉ tê

Thuở ấy Thái Tử lại về,

Vua cha giao ấn trị vì muôn dân.

Nhị nguyệt vừa năm Mậu Dần,

Cải hiệu Thiệu Bảo, hoàng đế Nhân Tông.

Từ bấy lấy Phật nằm lòng,

Ngày lo việc nước, đêm thì tầm kinh.

Hương hoa đèn nến một mình,

Chiêu tập thiền khách vào thành mà tham.

Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ nam,

Nhân Tông tác lễ mới tham đạo thầy.

Tuệ Trung chỉ bảo như vầy:

Tức Tâm Thị Phật xưa nay Bụt truyền.

Tâm kinh vốn thấy căn nguyên,

Tâm là Nhất Tự Pháp Môn Thượng Thừa.

Tâm bao bọc hết Thái Hư,

Tâm năng ứng dụng tùy cơ trong ngoài.

Tâm hiện con mắt lỗ tai,

Hay ăn, hay nói mọi tài khôn ngoan.

Tâm năng biến hóa chư ban,

Vạn pháp cụ túc, lại hoàn như như.

Nhân Tông Hoàng Đế Điều Ngự,

Nghe Tuệ Trung dạy, ngộ đà viên thông. ?

Thuở ấy con là Anh Tông,

Nhường cho tước vị Hưng Long hiệu rày.

Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài,

Quyết lên Yên Tử tu chùa Hoa Yên.

Quần thần nghĩa sĩ dưới trên,

Đưa Vua tu Đạo thoát duyên phàm trần.

Đến chùa Long Động mới phân,

Tất trừ phiền não ái ân, phát nguyện.

Nhân Tông khắn khắn lòng tin,

Thành tâm trai giới bước lên chiền già.

Cung thể nữ tần trở ra,

Người về phối thất, kẻ ra Kinh kỳ.

Mặc ai ra chợ về quê,

Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng.

Thế gian vạn sự của chung,

Sinh không, tử lại hoàn không những là.

Nay Trẫm đầu Phật xuất gia,

Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi.

Chị hầu, bà Mụ, Cung phi,

Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây.

Lòng Vua thấy vậy thương thay,

Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền.

Cho nên tích để lưu truyền:

Làng Nàng, làng Mụ, phúc duyên đã chầy.

Vua ngự Yên Tử bằng nay,

Tụng kinh, thiền định đêm ngày cần tu.

Thiên hạ phủ huyện lộ chu,

Hưng sùng Phật pháp thành đô trong ngoài.

Dân chúng học đạo mọi nơi,

Nhiều người kiến tính nối đời Thiền tông.

Thì vừa Giáp Thìn niên trung,

Đầu Đà hành hóa tham lòng thế gian.

Giảng Pháp Nam, Bắc, Đông, Tây

Anh Tông có biểu thỉnh ngay vào thành.

Trước mặt bá quan triều đình,

Anh Tông thụ giáo tự mình quy y.

Rời chốn cung điện, kinh kỳ

Cất bút bài đề một kệ rằng hay:

“Thế số nhất tức mặc,

Thời tình lưỡng hải ngân.

Ma cung hồn quản thậm,

Phật Quốc bất thắng xuân.”

Về đến Hương Lâm thuở nay,

Nhức đầu khí liệt, chân tay ngại kề.

Tình cờ hai thầy đi qua,

Tử Dinh cùng với Hoàn Trung chẳng chầy

Nhân Tông thốt bảo rằng bay:

“Lòng Ta thuở này muốn đến Ngọa Vân.”

Hai thầy tay đỡ đến gần:

“Xin được hộ tống bớt phần đường xa.”

Tu du xẩy lên đến già,Nhân Tông thốt bảo:

“Mữa qua lời này.

Các người học Đạo chớ chầy,

Vô thường hai chữ kíp thay nan đào.

Gọi lấy Bảo Sát cho Ta,

Có lời đặc nhủ tiêu hao mọi lòng.”

Hành giả tên là Pháp Không,

Am Vân Tiêu đến trong lòng thương thay!

Nói chiềng Bảo Sát cho hay:

Tôn Đức thì tiết thuở này chẳng qua.

Bảo Sát lòng thương xót xa,

Tay đem kinh giáo xuống mà tìm đi.

Đường trường lặn suối sơn khê,

Đêm ấy phải tối một khi nằm rừng.

Coi thấy hắc vân bay không,

Bảo Sát gẫm được, trong lòng biết hay.

Lên đến Ngọa Vân kíp nay,

Điều Ngự thốt bảo: “Con chày, Thầy mong.

Vạn Pháp bản lai chân không,

Chẳng mắc một pháp mới thông lòng Thiền.

Thực là Pháp Tính tự nhiên,

Bất Sinh Bất Diệt bản nguyên làu làu.

Chư Tổ phó chúc bấy lâu,

Ý nghĩa mạt hậu để sau mà dùng.

Pháp Loa Ta đã truyền lòng,

Làm đệ nhị Tổ nối dòng Như Lai.

Đèn Bụt như lửa mặt trời,

Hoả tinh vô tận mỗi người mỗi cho”.

Bảo Sát hỏi chúng môn đồ,

“Ai ai cũng có minh châu trong mình.

Pháp thân vĩnh viễn trường linh,

Tỳ lô đỉnh thượng tung hoành Thái Hư.

Thánh phàm vô khiếm vô dư,

Đường đường đối diện như như thể đồng.”

Giảng hết Thiền chỉ Tâm Tông,

Thiên địa chấn động hư không thuở này.

Phó chúc ngô thử hình hài,

Tượng pháp muôn đời công án độ sinh.

Thế thế Thích tử tu hành,

Điều Ngự thụ ký công thành nhiều thay! 

Thập nhất nguyệt mồng một nay,

Tý thời Sư Tổ quy Tây Niết Bàn.

Bảo Sát phụng phó chúc ngôn,

Trà tỳ phần hóa hỏa quang ngút trời.

Pháp Loa, Bảo Sát mọi người,

Thu thập ngọc cốt thương ôi những là:

“Tổ đã một ngày một xa,

Ai hầu giáo hóa chúng ta sau này?”

Dòng dòng nước mắt chảy ngay,

Rước về Yên Tử tháp xây kính thờ.

Một phần xây tháp Phổ Minh,

Ấy là Thánh cốt uy linh nước này.

Đời đời vua chúa kính thay,

Để dân tảo lệ xưa nay phụng thờ.

Thật dân Tam Bảo hoằng nô,

Trung Lương, Nam Mậu tích xưa Trần triều.

Quan sang thiên hạ dấu yêu,

Vì chưng thuở trước đã nhiều nhân duyên.

Cúng Tăng sự Phật lòng tin,

Coi sóc chùa chiền kỹ lạp hương hoa.

Muôn đời khiên tộ quốc gia,

Nước có Phật cốt sinh ra Thánh Hiền.

Nước Nam dẹp được bốn bên,

Vì có Phật Báu Hoàng Thiên hộ trì.

Đời đời Phật Đạo quang huy,

Quốc gia đỉnh thịnh càng thì tăng long”.