Ngài An Thế Cao vốn là vương tử nước An Tức, sinh trưởng trong cảnh giàu sang quyền quý, nhưng Ngài sớm nhận ra tất cả vinh hoa thế tục chỉ như bèo dạt mây trôi. Bởi vậy, Ngài quyết định buông bỏ ngôi báu thế gian, dấn bước vào đời sống phạm hạnh và trở thành một trong những bậc luận sư uyên bác bậc nhất đương thời.
Ngài sở hữu tư chất thông tuệ “nghe một biết ngàn”, tinh thông các ngoại ngữ và đặc biệt có khả năng hiểu được tiếng chim thú. Bên cạnh đó, Ngài đã phiên dịch hàng chục bộ kinh quan trọng, đặt nền móng căn bản cho hệ thống Phật học phương Đông.
Không chỉ nổi bật ở học vấn, cuộc đời hành đạo của Ngài đã giúp hàng hậu học thông tỏ định luật nhân quả vận hành. Khi nhân duyên chín muồi, Ngài chủ động tìm gặp người từng gây oán trong tiền kiếp, nói rõ sự thật của vòng nghiệp báo và giúp họ thức tỉnh. Sau đó, Ngài an nhiên đi đến nơi cần hoàn mãn phần “dư báo”, đón nhận cái chết đến với mình. Đó không phải là bi kịch, mà chính là sự tự tại của một bậc Thánh giả và là phương tiện độ sinh của Ngài.
Giới thiệu về Ngài An Thế Cao
Ngài An Thế Cao tên là Thanh, tự là Thế Cao. Ngài vốn là vương tử nước An Tức (một vương quốc cổ thuộc vùng đất Ba Tư xưa, nay thuộc đất nước Iran - phía Tây Bắc Ấn Độ). Do họ của Ngài được đặt theo quốc hiệu nên trong sử liệu có ghi lại các tên gọi khác của Ngài như: An Thanh, An Hầu, An Thế Cao.
Từ thuở bé, Ngài đã nổi tiếng thông tuệ khác thường, hiếu hạnh tròn đầy, am tường nhiều môn học. Song, điều làm nên tầm vóc của Ngài không chỉ bởi học vấn, mà là chí nguyện xuất trần mạnh mẽ.
Đoạn đời của Ngài từ đây sẽ được mở ra trong các phần tiếp theo: tài nghệ siêu phàm, hành trình xuất gia, sự nghiệp hoằng Pháp và câu chuyện nhân quả dẫn dắt Ngài trở thành bậc Thánh giả được tôn kính muôn đời.
Tài nghệ của Ngài An Thế Cao
Thuở nhỏ, An Thế Cao nổi danh là người con hiếu thảo, lại thêm tư chất thông minh, có chí cầu học; các sách vở nước ngoài, thiên văn, địa lý, y học,... thảy đều tinh tường. Đặc biệt về phương diện ngôn ngữ, Ngài thông thạo hơn 30 ngoại ngữ và nghe hiểu được tiếng chim thú.
Một lần nọ, Ngài cùng các bạn dạo bước trên đường, bỗng gặp một đàn chim én bay qua ríu rít không ngừng, An Thế Cao mỉm cười liền nói: Chúng bảo nhau sắp có người đem thức ăn đến. Chỉ một lúc sau, quả nhiên đúng như vậy! Mọi người ai nấy cũng đều kinh ngạc trước khả năng phi thường ấy. Bởi thế, tiếng tăm của Ngài sớm đã lừng lẫy khắp nơi.
Hành trình xuất gia và công cuộc hoằng Pháp của Ngài An Thế Cao
Thế Cao tuy còn tại gia nhưng gìn giữ giới Pháp hết sức nghiêm tịnh. Sau khi vua cha băng hà, Ngài lên nối ngôi phụ vương. Song do thấu đáo lẽ vô thường, nên Ngài sớm đã xem vinh hoa phú quý như bèo bọt mây nổi. Khi mãn tang cha, Thế Cao liền nhường ngôi lại cho chú, còn mình dấn thân vào con đường xuất thế, du phương học đạo. Với tài đức sẵn có, chẳng bao lâu Ngài đã thông đạt Tam Tạng kinh điển, sở trường về A Tỳ Đàm (tức là Luận Tạng, Luận Pháp) và thiền quán đến mức cao diệu.
Sau đó, Ngài du hành qua các nước ở Tây Vực để hoằng hóa độ sinh. Với khả năng thông tuệ “nghe một biết ngàn”, chẳng bao lâu Ngài đã thông thạo tiếng Hoa và tham gia công tác dịch thuật hơn 20 năm.
Thời bấy giờ, Phật giáo Trung Quốc còn ở buổi sơ kỳ, thuật ngữ Phật học còn chưa phong phú, lại hiếm người am tường, thông thạo cả hai thứ tiếng Phạn và Hoa, nên việc dịch thuật vô cùng gian nan và khó tránh khỏi lầm lẫn. Tuy nhiên, Thế Cao nhờ xuất thân là người Tây Vực, lại thông đạt cả hai ngôn ngữ nên dịch kinh rất chuẩn xác. Kinh điển Ngài dịch nghĩa lý rõ ràng, văn từ xác đáng, lời không hoa mỹ mà văn chất lại chẳng quê mùa chút nào. Độc giả đọc văn, ai cũng say mê không biết chán. Ngài được đánh giá là vị đứng đầu trong các nhà dịch thuật thời đó, là một trong những vị mở đường, đặt nền móng cho Phật giáo Trung Quốc.
Theo Tam Tạng Ký ghi chép rằng, những bộ kinh điển Phật giáo được Ngài dịch như: Bát Đại Nhân Giác, An Ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập, A Tỳ Đàm, Ngũ Pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Chuyển Pháp Luân, Bát Chánh Đạo, Thiền Hành Pháp Tưởng, Tu Hành Đạo,… tổng cộng khoảng 34 bộ, 40 quyển.
Ngoài việc tinh thông giáo Pháp, Ngài Thế Cao còn là bậc thông đạt sự lý, thấu rõ nghiệp duyên của mình. Nhờ đó, mọi hành trạng hoằng hóa của Ngài đều sáng rỡ, thuận theo nhân duyên và lợi ích lớn lao cho chúng sinh.
Nhân duyên tiền kiếp và đại nguyện cứu độ kỳ diệu của Đại sư An Thế Cao
Bậc Thánh giả độ thoát người bạn đồng tu đọa làm Thần xà
Thuở xưa, sau khi Ngài Thế Cao du hóa Trung Quốc và hoàn mãn công cuộc dịch thuật kinh điển. Ngài thu xếp hành trang đi về Giang Nam.
Đại sư An Thế Cao cùng hơn 30 lữ khách lên thuyền đi qua hồ Cung Đình. Nơi đây có một ngôi miếu thờ thần nổi tiếng linh thiêng và được đồn thổi rằng, các thương khách đi ngang nếu ghé lại cúng lễ, thì đi đường sẽ thuận buồm xuôi gió. Tương truyền tại nơi đây từng có kẻ đến trộm trúc trồng quanh miếu, rồi cho thuyền chở đi. Nhưng thuyền đi được một lúc liền bị lật chìm, trúc trôi trở lại nơi cũ. Sự việc khiến ai nấy đều kinh sợ, không dám xâm phạm đến nơi thờ tự này.
Lúc An Thế Cao cùng những vị thương khách đồng thuyền đi ngang qua, một vài vị đại diện mang lễ vật vào miếu cúng tế cầu bình an. Thần miếu liền giáng xuống bảo rằng:
- Trong thuyền có vị Sa-môn, xin mời Ngài lên đây!
Mọi người đều kinh ngạc, vội thỉnh mời bậc trí giả An Thế Cao lên miếu. Ngài điềm tĩnh, an nhiên bước xuống thuyền rồi đi vào ngôi thờ tự. Thần thấy vậy liền bảo:
- Xưa kia tôi cùng Ngài xuất gia học đạo. Tôi nhờ phước bố thí nên tài vật dồi dào, song do tâm tính sân hận nên phải bị đọa làm thần giữ miếu ở hồ Cung Đình này, cai quản chu vi cả ngàn dặm.
- Nay gặp lại bạn tu xưa thật vui buồn lẫn lộn, khôn xiết bùi ngùi. Thọ mạng tôi chẳng còn bao lâu. Thân hình to lớn xấu ác của tôi nếu chết ở đây thì e rằng sẽ làm ô uế sông hồ, nên định dời sang đầm Sơn Tây. Tôi chết đi sợ sẽ đọa vào địa ngục. Tôi có ngàn xấp lụa và các thứ bảo vật, xin Ngài nhận lấy để xây chùa tháp, cầu siêu độ cho tôi.
Bậc hiền giả An Thế Cao nghe xong liền nói:
- Tôi đến đây chính là để độ cho ông. Sao ông không hiện nguyên hình cho mọi người thấy?
Thần đáp:
- Thân tôi quá xấu xí đáng sợ, e rằng khiến mọi người kinh hãi.
Ngài Thế Cao bảo:
- Xin chỉ hiện một phần nào mà mọi người trông thấy không kinh sợ.
Thần liền từ phía sau giường thờ đưa đầu lên. Thì ra là con mãng xà khổng lồ, không biết cả mình dài bao nhiêu, chỉ thấy đầu cao đến gối. Ngài An Thế Cao liền đọc vài biến kinh tiếng Phạn cho nó nghe. Mãng xà nghe xong buồn bã, lệ rơi lã chã, giây lát liền ẩn mất.
Sau đó, Đại sư An Thế Cao thu dọn lụa là và đồ vật trong miếu rồi xuống thuyền ra đi. Thuyền giăng buồm rời bến, mãng xà leo lên núi nhìn theo đến hút tầm mắt. Khi đến Dự Chương, Ngài đem những đồ vật của thần miếu dùng vào việc xây cất chùa Đông Tự.
Lúc Ngài khuất bóng đi xa, mãng xà liền bỏ mạng. Tối đến, mọi người trông thấy có một thiếu niên đến quỳ trước Đại sư An Thế Cao để nhận lời chú nguyện, rồi chốc lát bỗng biến mất. Ngài nói với những người chung thuyền rằng, thiếu niên đó chính là vị thần ở ngôi miếu, nay đã được thoát thân mãng xà.
Từ đó miếu hồ Cung Đình không còn linh ứng nữa. Về sau, người ta phát hiện một con mãng xà rất lớn chết ở đầm Sơn Tây, đầu đuôi dài đến mấy dặm.
Sau đó, Ngài đã kể lại với dân chúng về câu chuyện tiền kiếp của mình rằng:
Trong tiền kiếp, Ngài từng là người xuất gia sống chung với một vị Tỳ-kheo. Vị ấy ưa thích bố thí, cúng dường nhưng tính tình lại hay sân hận. Mỗi khi đi khất thực, gặp thí chủ nào trái ý là ông ta liền nổi giận. Tiền thân Ngài Thế Cao từng nhiều lần khuyên bảo nhưng người bạn đồng tu vẫn không ăn năn cải đổi. Cứ như thế trôi qua hơn 20 năm, một hôm nọ, Ngài từ biệt người bạn ấy ra đi và nói rằng:
- Tôi đi Quảng Châu để trả cho hết túc nghiệp. Ông tinh tấn, thông đạt kinh điển chẳng kém gì tôi, nhưng tính còn nhiều sân hận. Sau khi mạng chung, e rằng ông phải bị đọa, mang thân hình xấu xa đáng sợ. Nếu tôi đắc đạo sẽ đến độ ông.
Sau đó, tiền thân Ngài Thế Cao đến Quảng Châu, gặp thời giặc cướp hoành hành, khắp nơi loạn lạc. Trên đường Ngài gặp một người thiếu niên, hắn ta rút dao ra nói:
- Ta tìm gặp được ngươi rồi!
Ngài mỉm cười trả lời:
- Ta vì đời trước mắc nợ mạng của ông, nên từ xa đến đây để trả. Ông sở dĩ gặp ta liền nổi sân, là do có lòng hờn giận từ đời trước.
Nói xong, Ngài thản nhiên không chút sợ hãi, ung dung đưa cổ cho người thiếu niên chém. Lúc ấy, người xem đứng chật cả hai bên đường, không ai là không kinh dị.
Sau đó, thần thức Ngài thác sinh lại làm vương tử nước An Tức, chính là An Thế Cao hiện đời. Còn vị Tỳ-kheo nóng nảy năm xưa chính là tiền kiếp của thần miếu tại hồ Cung Đình.
Cuộc hội ngộ kỳ diệu và dư báo cuối cùng của bậc trí giả
Thời gian sau, bậc Thánh giả An Thế Cao đi Quảng Châu, tìm gặp người thiếu niên đời trước đã giết mình. Người ấy nay vẫn còn sống nhưng đã trở thành ông lão tóc bạc. Ngài gặp vị đó, liền ôn tồn nhắc lại món nợ mạng xưa kia của mình và nói rõ nhân duyên đời trước, rồi hoan hỷ bảo:
- Ta nay vẫn còn chút dư báo, nên phải đi Cối Kê để trả cho xong!
Vị lão nhân Quảng Châu nhận ra Ngài Thế Cao là bậc phi phàm nên chợt tỉnh ngộ, ăn năn tội lỗi trước kia và khởi tâm vô cùng cung kính bậc Thánh giả. Ông ta thỉnh cầu bậc Đại sư được theo chân Ngài đi đến Cối Kê và Ngài Thế Cao đã đồng ý.
Khi đến Cối Kê, Ngài đi vào chợ, gặp lúc có loạn, người ta đánh lầm trúng đầu Ngài, nhân đó Ngài liền xả bỏ báo thân. Vị lão nhân Quảng Châu hai lần tận mắt chứng kiến việc trả báo của Ngài Thế Cao nên vô cùng tin sợ nhân quả. Từ đó, ông đã phát tâm tinh tấn tu tập và thuật lại đầu đuôi câu chuyện này cho mọi người biết. Xa gần hay biết, ai cũng khởi lòng kính tiếc!
Trên đây là những chia sẻ của Thầy Thích Trúc Thái Minh về tiểu sử của Ngài An Thế Cao. Qua sự kiện ấy, chúng ta càng thêm thấm thía giáo lý nhân quả vận hành một cách khách quan, nghiêm mật. Dẫu là bậc Thánh giả với trí tuệ siêu việt và đạo hạnh thanh tịnh; Ngài An Thế Cao vẫn tự tại, an nhiên thuận theo nhân duyên và hoàn thành trọn vẹn những gì còn dang dở trong dòng nghiệp lực quá khứ. Tuy vậy, Ngài không có một lời oán than hay trách móc mối nhân duyên tiền kiếp của mình, mà lấy đó làm cơ hội để giáo hóa chúng sinh và làm sáng tỏ chân lý Phật đà.
Bởi vậy, mỗi người chúng ta nên khởi tâm tin sâu nhân quả và nỗ lực thực hành lời Phật dạy: tinh tấn tu hành, chăm chỉ làm các việc phước thiện để chuyển hóa tâm mình. Như vậy, ắt sẽ gặt hái những điều an lành, tốt đẹp cho hiện tại và mai sau.
[Video] Pháp thoại: "Làm sao để biết và tôn kính bậc trí?" - Kinh Hiền Nhân, Bài 19 | Ngày 08/10/Ất Tỵ
27/11/2025 312
Xem thêm
Mahakala là ai? Cái chết oan khiên giúp thấu rõ mối nhân duyên tiền kiếp
Đế Thích là ai? Cách gieo thiện nghiệp để làm vua cõi Trời
Tiền kiếp Đức Phật: Chim anh vũ quyết tâm cứu rừng cháy khiến vua Trời cảm động
Thiền sư Kim Bích Phong: “Đập vỡ” bình bát ngọc để đạt được giác ngộ viên mãn
Ông Tô Đông Pha và Thiền sư Phật Ấn: Hai lần “thử tâm” giúp nhận ra chính mình