trực tuyến [TRỰC TIẾP] "4 thứ khó có được ở đời" | Thầy Thích Trúc Thái Minh, ngày 08/11 Canh Tý
Giới thiệu Tin tức Câu lạc bộ - Đạo tràng Nghi lễ Pháp âm Bài viết Thư viện kiến thức Tu học của Tăng chúng Khóa tu mùa hè Câu chuyện chuyển hóa Giải đáp thắc mắc Videos Thư viện ảnh
3 thành tựu siêu việt Đức Phật chứng đạt trong đêm Ngài thành đạo

Dưới cội Bồ Đề, vào đêm thứ 49 - một sự kiện xảy ra, chấm dứt đêm trường u tối, mở ra cánh cửa lộ trình giải thoát bất tử, đó là Thái tử Tất Đạt Đa (tức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau này) lần lượt chứng đắc Tam minh: Túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh.

Để cùng tìm hiểu về 3 thành tựu siêu việt mà Đức Phật chứng đạt trong đêm Ngài thành đạo, kính mời quý Phật tử đón đọc bài viết dưới đây qua lời chia sẻ của Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh.

#1 Túc mạng minh - nhớ rõ ràng các đời sống trong quá khứ

Trải qua 6 năm âm thầm chuyên tu, hành thân cực khổ nơi rừng già đã khiến thân thể Thái tử Tất Đạt Đa (tức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau này) trở nên kiệt quệ, mất sức.

Trong những năm tháng Ngài tu khổ hạnh ép xác đến kiệt quệ thì có sự kiện nàng Sujata dâng bát cháo sữa cúng dường Ngài. Chính nhờ thọ bát cháo ấy mà cơ thể Ngài bắt đầu khỏe lại, có sức lực và từ đó Ngài rõ biết khổ hạnh cực đoan không phải con đường đúng đắn dẫn chúng sinh đến bến bờ chân giải thoát, an vui. Và Ngài quyết định từ bỏ khổ hạnh cực đoan, trở về con đường trung đạo, an trú trong thiền định suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ đề và chứng đạt lần lượt sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và cuối cùng là tứ thiền.

Đến đêm thứ 49 vào canh thứ nhất, Ngài chứng đắc thành tựu đầu tiên đó là: Túc mạng minh - nhớ rõ ràng các đời sống trong các kiếp quá khứ.

Chứng đạt túc mạng minh, Đức Phật nhớ được các đời sống trong quá khứ

Chứng đạt túc mạng minh, Đức Phật nhớ được các đời sống trong quá khứ

Trong Trung Bộ kinh, tập 1, Đại kinh Saccaka trang 98 ghi chép rằng: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Tỷ - kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.

Vị ấy nhớ rằng: Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy Tỷ - kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết”.

Thật vậy, tâm ý của Đức Phật không những được tôi luyện, thanh lọc, trong sạch đến mức tuyệt đối mà còn định tĩnh, không phiền não, nhu nhuyến, vững chắc. Tâm của Ngài ví như hồ nước khi yên lặng, không nổi sóng thì mặt nước lắng trong có thể nhìn thấu suốt tận đáy hồ, thấy rõ từng đàn cá lội, từng hòn sỏi đá.

#2 Thiên nhãn minh - thấy được sự sống chết của tất cả chúng sinh

Sau khi chứng đắc Túc mạng minh, vào canh giữa, Ngài chứng đắc thành tựu thứ hai là Thiên nhãn minh - thấy rõ được sự sinh tử luân hồi của tất cả chúng sinh.

Khi chứng đắc thiên nhãn minh, Đức Phật thấy được sự sống chết của tất cả chúng sinh

Khi chứng đắc thiên nhãn minh, Đức Phật thấy được sự sống chết của tất cả chúng sinh

Cũng trong Trung Bộ kinh, tập 1, Đại kinh Saccaka trang 100 có ghi rằng: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ - kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng: Này các Hiền giả, những chúng sanh này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này”.

Thiên nhãn là con mắt có thể nhìn thấy khoảng cách rất xa của những vật lớn, vật nhỏ xuyên qua tất cả những vật ngăn cản như tường, vách, núi non, nhìn từ hành tinh này đến hành tinh khác.

Như vậy, với tâm trong sạch, thuần tịnh, siêu nhiên, Đức Phật thấu suốt mọi sự luân hồi sinh tử của chúng sinh. Ngài biết về cội nguồn của tất cả mọi loài: họ sinh ra từ đâu, rồi chết đi tái sinh kiếp nào,... Và với sự chứng đắc thiên nhãn minh càng khẳng định trí tuệ từ tâm sáng của Đức Phật là vô cùng đặc biệt, khiến tam thiên đại thiên thế giới đều kính nể, quy phục.

#3 Lậu tận minh - biết rõ nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ

Sau khi chứng đắc túc mạng minh và thiên nhãn minh, đến canh cuối của đêm thứ 49, khi Sao Mai vừa mọc, Ngài chứng đạt được thành tựu cuối cùng là lậu tận minh - tâm đó gọi là vô lậu, không còn một chút nhơ bẩn nào, thuần tịnh, trong sạch tuyệt đối.

Chứng đắc lậu tận minh - Đức Phật biết rõ nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ

Chứng đắc lậu tận minh - Đức Phật biết rõ nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ

Trong kinh Saccaka trang 101 và 102 có ghi chép về quá trình Đức Phật chứng đắc lậu tận minh: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ - kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật “đây là khổ”, biết như thật “đây là nguyên nhân của khổ”, biết như thật “đây là khổ diệt”, biết như thật “đây là con đường đưa đến khổ diệt”, biết như thật “đây là những lậu hoặc”, biết như thật “đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật “đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật “đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”.

Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Vị ấy biết: Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”.

Với sự thành tựu cuối cùng, Đức Thế Tôn biết rõ nguyên nhân của sự khổ và con đường diệt khổ hoàn toàn để đạt giác ngộ giải thoát. Đồng thời, Ngài tự biết bản thân đã giải thoát, chấm dứt hoàn toàn vòng sinh tử luân hồi, thành tựu phạm hạnh, đạt Vô thượng Bồ đề.

Sau khi lần lượt chứng đắc Tam minh, Ngài tuyên bố rằng Ngài là người đã giác ngộ hoàn toàn, thấu suốt chân thật mọi lẽ huyền vi của pháp giới vũ trụ vạn hữu này. Ngài thấy rằng không có một ai là chúa tể hay thượng đế toàn năng sắp đặt số phận cho con người. Bởi tất cả sự khổ, luân hồi sinh tử của chúng sinh đều từ vô minh, chấp ngã gây tạo nên. Thấu rõ điều đó nên Ngài đã đem ánh sáng chân lý tối hậu đi tuyên giảng khắp nơi để chúng sinh tỏ ngộ, thoát khỏi u mê, lầm lạc, đạt chân hạnh phúc.

Và một phước báu thù thắng, Đức Thế Tôn khẳng định tất cả chúng sinh đều có khả năng giác ngộ như Ngài hoặc bằng Ngài. Không có một đấng giáo chủ của tôn giáo nào trên thế giới nói rằng các đồ đệ của họ sau này sẽ ngang bằng với mình. Nhưng duy nhất Đức Phật thì Ngài tuyên bố sự thật rằng tất cả chúng sinh đều có khả năng giác ngộ và chứng đạt chân lý tối hậu như Ngài. Đấy là sự vĩ đại, sự vi diệu nơi Ngài và chúng ta thật sự hạnh phúc vì được làm đệ tử của Đức Thế Tôn.

Vào đêm thứ 49 khi Đức Phật an trú trong đại định, Ngài lần lượt chứng đắc Tam minh, mở ra cánh cửa liễu thoát luân hồi sinh tử cho muôn loài chúng sinh. Qua sự kiện trên, chúng ta càng khâm phục, quy kính Bậc Thầy Nhân Thiên, từ đó càng thêm tinh tấn tu tập theo lời Phật dạy, áp dụng vào cuộc sống, để làm lợi ích cho chính mình và cho mọi người xung quanh.

Hạnh Ngân

Bài liên quan