Tháp Trà Tỳ là nơi ghi dấu sự kiện thiêng liêng bậc nhất trong lịch sử Phật giáo - lễ trà tỳ kim thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi Ngài nhập Niết bàn. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn có ghi lại, tại nơi linh thiêng ấy, Đức Phật đã thị hiện nhiều sự kiện nhiệm màu khiến nhân thiên khởi tâm vô cùng kính ngưỡng.
Với người con Phật, được chiêm bái, đảnh lễ bảo tháp Trà Tỳ không chỉ là nhân duyên hy hữu; mà còn là cơ hội gieo duyên phước thiện để sinh về cõi lành và vun bồi lòng tin nơi Tam Bảo.
Ngày nay, bảo tháp đã trở thành Thánh địa mang giá trị tâm linh sâu sắc, thu hút đông đảo Phật tử và du khách khắp thế giới hành hương mỗi năm. Mời quý vị cùng tìm hiểu rõ hơn về tháp Trà Tỳ và những sự kiện lịch sử diễn ra tại ngôi bảo tháp linh thiêng này.
Giới thiệu chung về bảo tháp Trà Tỳ
Bảo tháp Trà Tỳ (Angrachaya) nằm cách nơi Đức Phật nhập diệt gần 2km, nay là thị trấn Kushinagar, thuộc tiểu bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Đây chính là nơi trà tỳ (hỏa táng) kim thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, kim thân của Ngài được hỏa táng theo nghi thức tang lễ của một bậc Chuyển Luân Thánh Vương. Khi ấy, chúng sinh các cõi và dân chúng khắp nơi đều đổ về thành Câu Thi Na đảnh lễ Ngài. Tiếng khóc thương vang dội khắp thành, ngày đêm không dứt. Chính tại vị trí tháp Trà Tỳ ngày nay, dân chúng chất gỗ thơm chiên đàn, trầm thủy thành lầu hương lớn để đặt kim quan Như Lai. Bốn phía của lầu hương treo lọng báu, phan đèn, chuỗi ngọc, dây vàng; gỗ thơm tỏa hương khắp thành.
Trước đây, nơi Đức Phật nhập Niết bàn và nơi trà tỳ kim thân của Ngài vốn là một khu vực, cùng thuộc Thánh tích Kushinagar. Tuy nhiên, do khuôn viên quá rộng, nên về sau chia thành hai khu vực riêng biệt để thuận tiện cho việc thờ phụng, chăm sóc và bảo tồn. Bảo tháp hiện cao hơn 8m, đường kính 34m và có hình dáng như một ngôi mộ cổ uy nghiêm.
Tháp Trà Tỳ - Nơi chứng kiến 4 sự kiện linh thiêng khi hỏa táng kim thân Đức Phật
1. Kim quan tự bay bảy vòng trong bảy ngày
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Nhân dân trong thành dùng thất bảo - gồm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu và mai khôi để làm kim quan cúng dường kim thân của Ngài. Dân chúng dùng bạch điệp để nâng kim thân Đức Phật vào kim quan. Sau đó, nắp kim quan tự đóng lại một cách lạ kỳ.
Vì tham cầu phước báu, người dân trong thành không muốn cho chúng Trời khiêng kim quan, chỉ muốn tự mình rước vào thành làm lễ; nhưng bốn vị đại lực sĩ dùng hết sức mình vẫn không thể lay chuyển được kim quan. Người trong thành tiếp tục sai tám đại lực sĩ, mười sáu đại lực sĩ, song kim quan vẫn nằm yên bất động.
Thấy vậy, Ngài A Nâu Lâu Đà bảo các lực sĩ, tất cả Nhân dân trong thành cũng không thể khiêng nổi kim quan Như Lai. Việc này phải thỉnh đại chúng cùng chư Thiên trợ lực thì mới khiêng kim quan vào thành được. Bởi với tâm đại bi và bình đẳng, Đức Thế Tôn muốn cho cả Trời và người đều được nhân duyên cúng dường, đồng hưởng phước lành. Lúc đó, Thiên Đế Thích cùng chư Thiên cầm lọng bảy báu lớn, vô số hoa hương, phan lọng, âm nhạc, đồng tâm cúng dường kim quan của Phật. Khi tất cả các chúng đã thành tâm dâng lễ, kim quan của Ngài mới từ rừng Sa la nhẹ nhàng tự bay lên hư không.
Cứ thế, kim quan bay quanh thành Câu Thi Na, mỗi phía rộng bốn mươi tám do tuần, theo hướng từ cửa Đông sang cửa Nam, bay vòng đến cửa Bắc rồi vào cửa Tây. Kim quan của Ngài nhiễu quanh thành ba vòng; sau đó ngược lại bốn vòng. Khi bay vào thành, vô số dân chúng; Tứ Thiên Vương; chư Thiên cõi trời Đao Lợi, cõi trời Tha Hóa, chư Thiên cõi Sắc, cõi Vô Sắc;... đều đem gỗ thơm, hương báu của các cõi đến cúng dường kim thân của Ngài. Cứ như vậy, khi đủ bảy ngày, kim quan từ tự hạ xuống giường thất bảo - đó chính là vị trí của bảo tháp Trà Tỳ ngày nay.
2. Nắp kim quan Như Lai tự bật mở khi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp dâng y
Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm 28 có ghi lại, khi Đức Thế Tôn nhập diệt, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng 500 vị Tỳ kheo đang ở núi Kỳ Xà Quật (tức núi Linh Thứu ngày nay), cách thành Câu Thi Na 50 do tuần. Trong lúc nhập định, Tôn giả cảm nhận tim đập mạnh, toàn thân rung lên, nên liền xuất định. Khi ấy, núi cây xung quanh chấn động, Ngài biết rằng Đức Thế Tôn đã nhập Niết bàn bảy ngày và kim thân của Như Lai đã được an vị trong kim quan.
Tuy nhiên, Đức Phật chỉ cho các các vị Thánh Tăng sử dụng thần thông trong những việc độ sinh. Cho nên, với tâm vâng lời, lòng tôn kính vô biên đến Đức Phật, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp không dùng thần thông, mà cùng đại chúng đi bộ suốt bảy ngày, hướng về thành Câu Thi Na - nơi đang cử hành lễ trà tỳ.
Đến nơi, Ngài dẫn các vị Tỳ kheo nhiễu quanh kim quan Như Lai, thành kính lễ bái, bật khóc đến ngất lịm đi. Khi đó, một hiện tượng nhiệm màu xảy ra, nắp kim quan tự bật mở, những lớp bông lau, vải bọc quấn quanh kim thân đều tự tháo tung, để lộ thân huỳnh kim sáng rực, hiện đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.
Trong niềm xúc động sâu thẳm, Tôn giả Ca Diếp dâng y cúng dường lên kim thân Ngài. Nhờ thần lực của Phật, tấm y tự quấn quanh kim thân, các tấm vải cũ trước đó cũng lần lượt quấn trở lại. Cuối cùng, nắp kim quan liền tự đóng.
3. Trời, người không thể châm lửa trà tỳ
Khi ngọn lửa trà tỳ sắp nổi lên, dân chúng than khóc chấn động cõi Đại Thiên. Mọi người cầm đuốc hương lớn, cháy sáng cả vùng, châm vào lầu gỗ thơm. Thế nhưng, khi đến gần lầu gỗ thơm, tất cả ngọn đuốc đều tự tắt.
Trăm ngàn Hải Thần đem đuốc lớn thất bảo đến châm vào lầu hương, nhưng những ngọn đuốc cũng không thể cháy. Lúc đó, trong thành Câu Thi Na có bốn lực sĩ đeo chuỗi ngọc trang nghiêm, tay cầm đuốc lớn, lên đốt lầu hương để trà tỳ thân Như Lai. Vừa lên, ngọn đuốc cũng liền tắt. Cứ như vậy, cho dù thêm tám lực sĩ, ba mươi sáu lực sĩ thì lửa trà tỳ vẫn không thể cháy.
Như Lai là một bậc vĩ nhân, một người có đại lực, đại từ bi; nên khi ấy, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mới nói, lửa trong tam giới không thể đốt cháy được kim quan của Ngài.
Sau khi biết được điều này, dân chúng càng thêm buồn khổ, đồng đảnh lễ cúng dường, nhiễu quanh kim quan bảy vòng. Lúc bấy giờ, từ ngực Như Lai, một ngọn lửa đại bi phóng ra, tỏa quanh kim quan và tự đốt cháy lầu hương. Qua bảy ngày, kim quan mới được thiêu hoàn toàn.
4. Bông lau, vải bọc kim thân Như Lai còn nguyên sau khi trà tỳ
Khi Đức Phật nhập Niết bàn, dân chúng trong thành đem những tấm vải quý, hương hoa, trỗi nhạc cúng dường Như Lai. Họ dùng nhiều lớp bông lau mịn màng, tấm vải quý bọc kim thân Đức Phật. Nhờ thần lực và oai đức của Như Lai, những lớp bông và tấm vải ấy tự quấn trọn thân Ngài một cách trang nghiêm.
Điều đặc biệt, sau bảy ngày hỏa táng, tất cả bông lau và tấm vải quý bó kim thân Ngài đều không hề cháy mà vẫn còn nguyên vẹn. Sự kiện linh thiêng ấy được ghi lại trong kinh Phân Chia Xá Lợi - Oai Lực Của Đức Phật - Kinh Đại Bát Niết Bàn (trích soạn từ kinh Đại Bát Niết Bàn), như một minh chứng cho oai lực và lòng đại bi vô biên của Đức Thế Tôn.
Qua bốn sự kiện nhiệm màu khi trà tỳ kim thân Như Lai, chúng ta càng thấu tỏ về thần lực đại bi của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm, tháp Trà Tỳ vẫn sừng sững giữa đất Phật, trở thành minh chứng sống động cho một giai đoạn thiêng liêng trong lịch sử Phật giáo. Thánh tích ấy chính là biểu tượng bất diệt của lòng tin, là điểm đến không thể thiếu trong hành trình tìm về dấu chân Đức Phật.
[Video] Pháp thoại: "Một Tỳ-kheo chứng A-la-hán" | Tích truyện Pháp Cú (Phẩm IV: Bài 2) | Ngày 14/9/Ất Tỵ (tức ngày 03/11/2025)
03/11/2025 103
Xem thêm
Công đức tạc tượng Phật: Cách tạo tượng giúp sinh vô lượng phước lành
Tìm hiểu 10 cõi giới - Cách tu tập để không bị đọa, được sinh cõi lành
Pháp đàn Lương Hoàng Bảo Sám: 5 cách hướng tâm để được tiêu tội, tăng phước
Địa ngục là gì? Cách thoát khỏi cảnh giới đau khổ theo lời Phật dạy
Lá cờ Phật giáo: Nguồn gốc thiêng liêng và ý nghĩa của các màu sắc