Tổ sư Kiều Đàm Di là bậc Ni trưởng thượng thủ, có sức ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Phật giáo, đặc biệt đối với hàng Ni giới. Bà chính là di mẫu của Thái tử Tất Đạt Đa (sau này trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) - người đã nuôi dưỡng, chăm sóc Thái tử từ thuở thơ bé.
Trong lần Đức Phật trở về cố hương để giáo hóa hoàng thân quốc thích, di mẫu Kiều Đàm Di cũng nhờ đó mà đã chứng đắc sơ quả Tu Đà Hoàn. Từ đó, niềm kính tín và tâm cầu đạo nơi bà càng thêm kiên cố. Với chí nguyện giải thoát, bà đảnh lễ khải bạch bậc Đạo Sư cho phép bà được xuất gia trở thành Sa-môn.
Dẫu bà đã ba lần thỉnh cầu nhưng Đức Phật đều từ chối, bởi Ngài quán chiếu giáo Pháp có thể sẽ tổn giảm 5000 năm nếu cho người nữ xuất gia. Nhưng cuối cùng, nhờ tâm thành tha thiết của bà Kiều Đàm Di và sự khéo léo bạch thỉnh của Tôn giả A Nan, Đức Thế Tôn đã chấp thuận cho hàng nữ giới được xuất gia, đặt nền móng cho Ni đoàn trong giáo Pháp Phật đà.
Kiều Đàm Di mẫu là ai?
Bà Kiều Đàm Di (hay còn gọi là Ma Ha Ba Xà Ba Đề) là em gái ruột của hoàng hậu Ma Da - thân mẫu của Thái tử Tất Đạt Đa. Thân phụ của Thái tử là vua Tịnh Phạn (người cai trị nước Ca Tỳ La Vệ) đã kết hôn với cả hai chị em là hoàng hậu Ma Da và bà Kiều Đàm Di.
Sau khi hạ sinh Thái tử được 7 ngày, hoàng hậu Ma Da băng hà. Nhờ công đức sinh ra một vị Phật, bà tái sinh lên cõi trời Đâu Suất, trở thành một vị thiên nam tử. Khi ấy, bà Kiều Đàm Di đã hy sinh tình mẫu tử, gửi người con ruột của mình là Nan Đà cho vú nuôi chăm sóc, rồi tự tay nuôi dưỡng Thái tử thay cho chị gái.
Lệnh bà đã chăm sóc Thái tử từ tấm bé cho đến khi trưởng thành - lập gia đình và xuất gia. Cho nên, công lao giáo dưỡng của lệnh bà Kiều Đàm Di hết sức to lớn.
Kiều Đàm Di - Tấm gương sáng trong hàng Ni giới
3 lần tha thiết cầu thỉnh Đức Phật xin được xuất gia nhưng thất bại
Khoảng 3 năm sau khi Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia đắc quả vị Phật, Ngài về độ cho hoàng tộc, các vương tử của dòng họ Thích Ca cũng quy y và xuất gia theo Ngài. Còn di mẫu Kiều Đàm Di - trong lần đầu tiên được nghe Đức Phật thuyết Pháp, bà đã chứng sơ quả Tu Đà Hoàn. Ngay sau đó, bà liền khởi tâm mong mỏi được xuất gia cầu đạo. Bà liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài và bạch thỉnh Ngài xin được xuất gia. Tuy nhiên, Đức Phật đã không chấp thuận lời thỉnh cầu.
Thời gian sau, khi vua Tịnh Phạn ốm nặng, Đức Phật quay lại hoàng cung để thuyết Pháp, hóa độ cho vua cha. Đức vua đã chứng quả A-na-hàm và băng hà. Về phía bà Kiều Đàm Di, cái chết của chồng khiến bà thức tỉnh rằng cuộc đời thật vô thường, mạng sống mong manh, ngắn ngủi, dù ở ngai vàng tột đỉnh nhưng cũng chung một kết cục cuối cùng đó là cái chết.
Sau tang lễ, Đức Phật rời hoàng cung. Với chí nguyện tầm cầu giải thoát kiên định, bà Kiều Đàm Di đã đến lễ Phật lần thứ hai, tha thiết xin được xuất gia nhưng Ngài vẫn không chấp thuận (nguồn kinh Trung A-hàm).
Sau hai lần tha thiết thỉnh cầu Đức Phật xin được xuất gia. Bà vẫn giữ lòng kiên định, quyết tâm tiếp tục bạch thỉnh Phật xin được trở thành Sa-môn. Lúc bấy giờ, Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo nghe tin Đức Thế Tôn ở Thích-ki-sấu sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong, Ngài khoác y, ôm bát mà du hành nhân gian. Bà liền đi theo sau Phật, tiến dần đến Na-ma-đề, trú tại tinh xá Na-ma-đề-kiền-ni.
Khi ấy Kiều Đàm Di lại đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi một bên và bạch Như Lai xin được xuất gia nhưng vẫn bị bậc Đạo Sư ngăn cản và từ chối.
Lệnh bà tập hợp 500 cung nữ tiếp tục xin Phật xuất gia
Dù ba lần bị từ chối cho xuất gia, di mẫu chưa bỏ cuộc. Bà tìm gặp Tôn giả A Nan và Tôn giả Ca Lưu Đà Di để hỏi về oai nghi, cách thức mặc y, mang bát, trì bình khất thực; cách đi, đứng, nói năng, ngủ nghỉ của một vị Tỳ kheo.
Sau đó, bà tập hợp 500 người nữ dòng họ Thích có cùng ý nguyện, trút bỏ hết trang phục hoàng cung, xiêm y ngọc ngà và khoác lên mình tấm y thô sơ, cạo tóc, đi chân đất, rời thành Ca Tỳ La Vệ đuổi theo Tăng đoàn của Đức Phật đến thành Tỳ Xá Ly (Vesāli). Các vị phu nhân, tiểu thư này chỉ quen ở trong cung, lên ngựa xuống xe; giờ đây phải đi hàng trăm cây số, đến những xóm làng để xin ăn, trưa ngủ dưới gốc cây, đêm ngủ trong rừng vắng, những đôi chân nõn nà đều sưng phù chảy máu, quần áo bụi bặm, lấm lem (theo kinh Tam Tạng, Tiểu Phẩm II, Chương Tỳ Khưu Ni).
Tôn giả A Nan khéo léo bạch thỉnh lên Đức Phật xin cho người nữ xuất gia
Sau khi đuổi kịp Đức Phật, Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc và không dám vào bạch xin Đức Như Lai.
Tôn giả A Nan trông thấy lệnh bà như vậy, liền hỏi và biết được lý do. Ngài đến đảnh lễ Đức Phật và thỉnh cầu cho họ được xuất gia.
Thế nhưng, khi Tôn giả bạch thỉnh Đức Phật ba lần, Ngài đều từ chối. Đến lần thứ tư, với lòng thành tha thiết, Tôn giả A Nan bạch hỏi Đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, không biết nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả không?
Đức Thế Tôn trả lời rằng, điều này có thể được. Đại đức A Nan liền đảnh lễ bậc Đạo Sư và thưa:
- Bạch Thế Tôn, Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo đã đem lại cho Thế Tôn nhiều lợi ích. Vì sao? Vì sau khi thân mẫu Thế Tôn mất, Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo đã bảo dưỡng Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn nói:
- …Đúng như lời ông nói. Không phải Ta không biết đến ân sâu của di mẫu đối với Ta, nhưng Ta không muốn cho nữ nhân dự vào Phật Pháp. Nếu ta cho nữ nhân ở trong Phật Pháp thì sau 500 năm, chánh Pháp của Ta sẽ suy đồi. Bởi thế mà Ta không muốn để nữ nhân dự vào Phật Pháp.
- …Nhưng này A Nan, Ta cũng đem lại cho Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo nhiều lợi ích. Vì sao? Này A Nan, Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo nhờ Ta mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo, không nghi ngờ ba ngôi tôn quý và Khổ - Tập - Diệt - Đạo, thành tựu tín tâm, phụng trì giới cấm, tu học bác văn, thành tựu hạnh bố thí, được trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát; xa lìa nghiệp không cho mà lấy, đoạn trừ nghiệp không cho mà lấy; xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn trừ nghiệp tà dâm; xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối; xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống rượu…
Sau đó, Đức Phật biết đã đúng thời, Ngài nói với Tôn giả A Nan:
- …Nay Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám Pháp tôn sư, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời. Nếu Kiều Đàm Di Đại Ái Đạo phụng trì tám Pháp tôn sư này thì được ở trong Pháp luật chân chánh mà xuất gia học đạo, được thọ giới Cụ túc, làm Tỳ-kheo-ni.
Như vậy, Đức Phật đã cho phép Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di và quý mệnh phú nhân, các công nương dòng họ Thích Ca được xuất gia, sống theo Pháp và Luật. Ngài biết đã đúng thời nên đã mời hai vị đại đệ tử và các đại trưởng lão đến hội ý, thảo luận, bàn bạc.
Đức Phật trầm ngâm một lúc rồi nói: Như Lai không kỳ thị nữ giới mà còn khuyến khích nâng đỡ họ nữa. Tuy nhiên chư vị có biết không, giáo Pháp của Như Lai sẽ trải dài trên thế gian này 10.000 năm, nhưng nếu cho nữ giới xuất gia thì giáo Pháp chỉ tồn tại 5.000 năm thôi. Đó là sự thật mà Như Lai không tiện nói với lệnh bà. Tuy nhiên, đã nhiều ngày suy nghĩ để quán căn duyên, đã nhiều lần hướng tâm đến thời gian tồn tại của chánh Pháp từ chư tôn Chánh Đẳng Giác quá khứ, Như Lai quyết định phát triển giáo hội Tỳ-kheo Ni sau khi đã suy nghĩ đúng đắn.
Bà Kiều Đàm Di nhận lãnh bát kỉnh Pháp và trở thành bậc Ni trưởng mẫu mực đầu tiên
Sau khi nghe Đức Phật cho phép nữ nhân được xuất gia với điều kiện họ phải thực hiện tám Pháp tôn sư, gọi là Bát Kỉnh Pháp, Tôn giả A Nan khéo léo nhận lãnh và ghi nhớ, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra. Ngài đi đến chỗ Kiều Đàm Di và nói rằng, Đức Phật đã thuận theo lời thỉnh cầu của bà mà bằng lòng cho bà được xuất gia, phụng trì Phật Pháp với điều kiện phải lãnh thọ Bát Kỉnh Pháp.
Được biết tin ấy, lòng bà Kiều Đàm Di vui mừng vô hạn và đồng ý lãnh thọ:
- Đại đức A Nan, xin Tôn giả đừng lo. Tôi sẽ trọn đời tuân theo giáo Pháp mà Đức Như Lai chỉ dạy. Dù có phải bỏ cả thân mạng chăng nữa, tôi cũng không dám vi phạm (theo kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Quyển V, Phẩm 7: Từ Bi).
Sau này, Tôn giả Kiều Đàm Di tinh tấn tu hành, nghiêm trì giới luật, bà chứng đắc Thánh quả A La Hán, trở thành bậc Thánh Ni đầu tiên, đặt nền móng cho con đường phạm hạnh để hàng Ni chúng muôn đời noi theo.
Giáo Pháp không tổn giảm nếu hàng hậu học tinh tấn tu tập
Đức Phật tuyên bố, nếu nữ giới xuất gia thì giáo Pháp của Phật sẽ bị tổn giảm chỉ còn 5000 năm. Tuy nhiên, kinh Mi Tiên Vấn Đáp: Nghi Về Thời Gian Giáo Pháp Tồn Tại có ghi, nếu hàng đệ tử của Phật biết tinh tấn tu hành, nghiêm trì về giới, định, tuệ, hoằng dương chánh Pháp, thì thời gian trụ thế của giáo Pháp sẽ được kéo dài hơn 5.000 năm và bốn đạo, bốn quả sẽ tồn tại dài lâu hơn.
Trong kinh Đức Phật Tán Dương Hạnh Đầu Đà cũng ghi lại rằng: “...Nếu hạnh đầu đà này được ở đời thì Pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời. Nếu có Pháp ở đời, thì thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm. Cũng vậy, Thánh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, đạo Tam thừa đều còn ở đời.”
Như vậy, nơi nào có chư Tăng tu hành hạnh đầu đà, nơi đó chư Thiên và chúng sinh nhận được lợi ích, mạng mạch Phật Pháp được duy trì lâu dài và có thể xuất hiện bậc Thánh nhân.
Xem thêm: Hạnh đầu đà: Hiểu đúng về 13 pháp tu khổ hạnh được Đức Phật tán dương
Mặt khác, nếu hàng hậu học sống buông lung, phóng dật, không chịu tu tập thì giáo Pháp của Phật sẽ nhanh tiêu hoại, thậm chí nhanh hơn cả 5.000 năm.
Xem thêm: 3 biểu hiện Phật Pháp bị tiêu hoại: Lời cảnh tỉnh và trách nhiệm của hàng đệ tử Phật
Trên đây là những phân tích minh triết của Thầy Thích Trúc Thái Minh về Tôn giả Kiều Đàm Di – bậc Ni trưởng đặt nền móng cho Ni đoàn đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, người đã mở ra con đường tu tập giải thoát cho hàng nữ giới. Mong rằng, chúng ta sẽ luôn khắc ghi công lao của bậc Thánh Ni, noi theo chí nguyện cầu đạo kiên định, lấy giới - định - tuệ làm tư lương trên bước đường tu học.
Nguyện hàng hậu thế sẽ tinh tấn tu tập, hoằng dương chánh Pháp, để Phật Pháp mãi lan tỏa, đem lại an lạc, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và muôn loài chúng sinh.
[Video] Pháp thoại: "Bậc minh đức" (Phần 2) - Kinh Hiền Nhân, Bài 18 | Ngày 06/9/Ất Tỵ
26/10/2025 114
Xem thêm
La Hầu La bạch xin Phật gia tài siêu thế
La Hầu La là ai? Vị Sa di xuất gia từ năm 7 tuổi và hành trình chứng Thánh quả
Vua Lưu Ly và cuộc thảm sát dòng họ Thích: Bi kịch từ nhân duyên tiền kiếp
Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiều Liên: Nhân duyên tiền kiếp để trở thành các bậc đại đệ tử
Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc: Cuộc đời bi kịch đến chứng đắc Thánh quả