trực tuyến
🔴Video số 1: Bạch lễ đặt bát cúng dường ngày 1 - Pháp đàn Lương Hoàng Bảo Sám| Ngày 24/8/Ất Ty.

Thứ Tư, 15/10/2025

tức 24/8 Ất Tỵ

Thiền sư Tuệ Bích Phổ Giác: Cuộc đời và hành trình phục hưng chùa Ba Vàng

25

Tổ Sư Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác là đệ tử là người tiếp nối dòng thiền thời Trần sau gần 300 năm bị thất truyền...

25
-
aa
+

Đức Tổ sư Tuệ Bích Phổ Giác là đệ tử của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - người tiếp nối dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử sau gần 300 năm bị thất truyền. Bên cạnh đó, Ngài cũng có công lao lớn trong công cuộc trùng tu ngôi Bảo Quang Tự được xây dựng vào thời nhà Trần từ thế kỷ XIII (nay là chùa Ba Vàng - ngôi chùa có tòa chính điện trên núi lớn nhất Đông Dương). 

Để hiểu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Ngài, kính mời quý vị cùng tìm hiểu về bài viết dưới đây.

Hoàn cảnh xuất gia của sư Tổ

Tổ sư Tuệ Bích Phổ Giác có pháp danh là Trúc Lâm Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác. Ngài sinh ngày 06 tháng 01 năm Mậu Tuất (1658) vào thời vua Lê Thần Tông. Ngài xuất gia tu hành từ khi còn ít tuổi và sau đó trở thành hậu duệ của Tam Tổ Trúc Lâm.

Tôn tượng đức Tổ sư Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác được thờ tự tại chùa Ba Vàng

Tôn tượng đức Tổ sư Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác được thờ tự tại chùa Ba Vàng

Đức Tổ sư sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Lê mạt. Để củng cố địa vị của mình, nhà cầm quyền phong kiến đã coi trọng Khổng giáo và đưa Phật giáo xuống hàng thứ hai sau Khổng giáo. 

Trong thời kỳ đó, sư Tổ đã chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử: Nội chiến Nam Bắc triều, Trịnh Nguyễn phân tranh,... đẩy đất nước vào con đường tăm tối. Trong bối cảnh lịch sử ấy, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đã bị thất truyền gần 300 năm và sự xuất hiện của sư Tổ như ngọn đèn thắp sáng những ngày đêm u tối. Bởi Ngài đã ly gia cắt ái, xả thân cầu đạo, làm sống lại dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, thành tựu được sở nguyện tiếp nối mạng mạch Phật Pháp do chư Tổ truyền trao. 

Sự nghiệp hoằng Pháp độ sinh của sư Tổ 

Lịch sử ghi lại, vào một đêm trong lúc tọa thiền, Ngài hướng tâm quán chiếu nhân duyên độ chúng sinh và biết rằng Thành Đẳng sơn (vị trí của chùa Ba Vàng hiện nay) là nơi hội tụ tinh hoa trời đất, rất thích hợp cho việc tu hành và cứu độ chúng sinh. Vì vậy, Ngài đã không màng khó khăn, gian khổ, một mình băng rừng, lội suối vượt đèo, quyết chí đến nơi đây thực hiện chí nguyện cầu đạo giải thoát. Tại đây, khi đã ngoài 40 tuổi, Ngài sống lặng lẽ một mình, dựng am tu tập; uống nước suối; lấy rau, quả rừng làm thức ăn;... Song thân tướng và sức vóc Ngài vẫn khỏe mạnh, đôi mắt ngời ngời sáng.

Trong suốt hơn nửa thế kỷ hành đạo, sư Tổ luôn hướng đến sự nghiệp tiếp Tăng độ chúng. Ngài đã cứu giúp rất nhiều người, nhất là những người không nơi nương tựa và có hoàn cảnh khó khăn. Vì thế, nhiều người đã theo Ngài học đạo để bày tỏ lòng tri ân và tìm hiểu giá trị Phật Pháp. Số lượng học chúng ngày càng tăng, Ngài đã cho thành lập các đạo tràng để Phật tử cùng nhau tu tập. 

Không những vậy, Ngài tùy thuận gieo duyên cho chúng sinh bằng việc kết hợp Tam giáo đồng nguyên là Phật giáo, Nho giáo và Khổng giáo, truyền tải giáo lý gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với nhiều đối tượng. Nhờ đó, Ngài dễ dàng cảm hóa chúng sinh. Vì biết ơn Ngài mà rất nhiều Phật tử, Nhân dân đã phát tâm cùng với Ngài trùng tu ngôi Bảo Quang Tự (tức chùa Ba Vàng ngày nay) vào thời vua Lê Dụ Tông (1705) khi Ngài 48 tuổi.

60 năm nhất tâm tu tập tại non thiêng Thành Đẳng, Ngài đã kiến lập, phát triển Tăng đoàn và trong số đó có gần 100 vị thiền Tăng đã thành tựu và mang giáo Pháp truyền tải khắp muôn nơi. 

Mặc dù Ngài tu hành nơi núi rừng thanh vắng, nhưng những người có tâm cầu đạo ai cũng biết đến Ngài. Chính nhờ công đức tu hành của Ngài mà dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử ngày càng phát triển rực rỡ tại Thành Đẳng sơn.

Đến năm 1757, vào một đêm mưa to gió lớn, bầu trời u ám, sấm chớp rền vang, cây cối ngổn ngang, đất đá chắn đường,... Lúc ấy, ai ai cũng lo lắng và cầu mong thảo am của sư Tổ được an toàn. Ngay sáng hôm sau, từng đoàn người di chuyển lên chùa thăm sư Tổ. Khi đến nơi, rất nhiều điều lạ kỳ hiện ra: ánh sáng phát ra như ánh hào quang, khói hương nghi ngút như làn mây bay lượn trên không trung,...

Tại giữa chính điện, một khung cảnh trầm lắng, da diết bao trùm tại nơi đây, hình ảnh sư Tổ đang tọa thiền, không khí và những âm thanh tụng niệm xa gần như khác với mọi lần, một âm thanh tha thiết mang đậm một nỗi thâm trầm, sâu thẳm.

Lúc sau, một sư Thầy bước ra báo tin: sư Tổ đã an nhiên về cõi Niết bàn vào giờ Tý, ngày 23 tháng 8 năm Đinh Sửu (1757), đời vua Lê Hiển Tông; Ngài trụ thế 100 tuổi.

Di sản sư Tổ để lại cho hậu thế

Những ngày cuối đời, sư Tổ lặng lẽ ra đi, an nhiên thị tịch không một lời di chúc, nhưng cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng, để lại muôn vàn ân đức cho thế gian, đặc biệt là những di sản vật thể và phi vật thể vô cùng quý giá.

Những di sản vật thể mà Ngài để lại tiêu biểu như: bia đá, rùa đá, cây hương,... đến nay vẫn còn được lưu giữ tại chùa Ba Vàng.

Những hiện vật mà sư Tổ để lại được trưng bày tại Bảo tàng chùa Ba Vàng

Những hiện vật mà sư Tổ để lại được trưng bày tại Bảo tàng chùa Ba Vàng

Một số cổ vật của chùa cũ được tìm thấy từ thời Tổ sư và được lưu giữ tại Bảo tàng chùa Ba Vàng

Một số cổ vật của chùa cũ được tìm thấy từ thời Tổ sư và được lưu giữ tại Bảo tàng chùa Ba Vàng

Một trong số đó, tấm bia đá khắc tên Tổ sư thể hiện tinh thần và hồn cốt mà Ngài để lại. Bởi chính nhờ tấm bia đá này mà chùa Ba Vàng được công nhận là di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Từ đó đến nay, trải qua nhiều lần trùng tu, chùa Ba Vàng trở thành điểm đến tâm linh thu hút đông đảo Phật tử và Nhân dân thập phương đến vãn cảnh, lễ Phật và tu học hàng năm. 

Bên cạnh đó, nhân duyên của Sư Phụ Thích Trúc Thái Minh - Trụ trì chùa Ba Vàng hiện nay và sư Tổ Tuệ Bích Phổ Giác cũng rất đặc biệt. Trong một lần về chùa Ba Vàng dâng hương, lễ Phật, Thầy đến trước tấm bia đá có khắc tên của Tổ sư. Khi ấy, Thầy bỗng nhiên nghe tiếng vang lên trong hư không rằng: “Phải về đây chịu trách nhiệm”. Câu nói ấy khiến Sư Phụ cảm nhận được sự giao phó của Tổ sư. Từ giây phút này, Thầy biết mình có một công việc cần đảm đương ở nơi đây.

Cho đến ngày nay, tấm bia đá là một di chứng, bởi nếu không có tấm bia thì không có chùa Ba Vàng. Sư Phụ cũng cảm nhận rằng trong các việc phận sự của chùa đều có sự gia hộ rất lớn của Ngài. 

Tấm bia đá trên lưng rùa khắc tên Ngài Tổ sư Tuệ Bích Phổ Giác

Tấm bia đá trên lưng rùa khắc tên Ngài Tổ sư Tuệ Bích Phổ Giác

Thế nên, bổn phận của hàng hậu học là phải tri ân, giữ gìn, thừa tự tài sản mà sư Tổ truyền trao. Nhờ ân đức của Ngài mà gần 300 năm về sau, chư Tăng Ni, Phật tử chùa Ba Vàng, với tinh thần tri ân và đền ân đã gìn giữ, tiếp nối mạng mạch Phật Pháp mà sư Tổ để lại. 

Noi theo tấm gương tu hành của Ngài, ngày nay, chúng ta phải luôn bền bỉ, kiên cố, vững tâm trên con đường cầu đạo giải thoát. Đó chính là việc làm chân thật để đền ơn Tam Bảo, đền ơn sư Tổ; bảo vệ Phật Pháp vững mạnh, trụ lâu dài ở thế gian.

Với tinh thần tri ân và đền ân, chư Tăng chùa Ba Vàng đã và đang tiếp nối mạng mạch Phật Pháp mà sư Tổ truyền trao

Với tinh thần tri ân và đền ân, chư Tăng chùa Ba Vàng đã và đang tiếp nối mạng mạch Phật Pháp mà sư Tổ truyền trao

Cuộc đời và sự nghiệp của Tổ sư Tuệ Bích Phổ Giác mãi là tấm gương đạo đức sáng ngời cho hàng hậu thế sau này noi theo. Đã hơn 200 năm kể từ ngày Tổ sư Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác - vị sư Tổ chùa Ba Vàng nhập Niết bàn, nhưng những giá trị Ngài để lại cho nhân thế vẫn còn mãi.

Bài liên quan
25
Xem thêm

Sơ Lược Tiểu Sử Tổ Sư Khai Sơn Chùa Ba Vàng

Tiểu sử Sư Tổ 🞄 18/9/2019

Ngài là một vị đại Thiền sư người đã thắp sáng niềm tin nối lại dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử sau hơn 300 gián đoạn do biến động của lịch sử và chiến tranh.

Tiểu sử Sư Tổ 🞄 18/9/2019

Ngài là một vị đại Thiền sư người đã thắp sáng niềm tin nối lại dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử sau hơn 300 gián đoạn do biến động của lịch sử và chiến tranh.