Tứ diệu đế là triết lý duy nhất giúp chúng ta thoát khỏi mọi khổ đau trong cuộc sống, đạt đến hạnh phúc tối thượng. Đây là giáo lý căn bản và xuyên suốt của đạo Phật, rất cần thiết cho những ai mong muốn tìm được cuộc sống bình an, hạnh phúc chân thật. Và đã là người tu học Phật thì phải thực hành Tứ diệu đế.
Bài viết dưới đây sẽ cung cấp đầy đủ những nội dung cơ bản về tứ diệu đế cũng như phương pháp để chúng ta thoát khỏi khổ đau qua lời giảng giải trên Thầy Thích Trúc Thái Minh. Kính mời các bạn cùng đón đọc!
Tứ diệu đế là gì?
“Tứ” nghĩa là bốn; “diệu” là cao quý, vi diệu, nhiệm màu và vô cùng lợi ích; đế là sự thật.
Như vậy, “Tứ diệu đế” hay còn được gọi là “Tứ Thánh đế”, “Tứ chân đế” hay gọi tắt là “Tứ đế” là bốn sự thật vi diệu của cuộc đời.
Đó là bốn sự thật về sự khổ (khổ đế), nguyên nhân của khổ (tập đế), cách giải quyết khổ (diệt đế) và con đường đưa đến hạnh phúc tối hậu (đạo đế).
Nhân duyên Đức Phật thuyết Tứ diệu đế
Sau khi Đức Phật thành tựu đạo quả, trở thành bậc Chính Đẳng Chính Giác, Ngài đã băn khoăn, do dự không biết có nên đi thuyết Pháp không? Bởi lẽ, giáo Pháp mà Ngài chứng đạt rất cao siêu, vi diệu, chúng sinh khó thâm nhập được.
Biết được tâm ý của Đức Phật cùng với lòng tha thiết cầu thỉnh Pháp, Phạm thiên Sahampati đã 3 lần thỉnh Phật truyền bá Phật Pháp đến với chúng sinh. Nhận lời thỉnh cầu, Đức Phật đã quyết định lên đường chuyển bánh xe Pháp. Nơi đầu tiên Ngài đến là vườn Lộc Uyển (vườn Nai), thuyết Tứ Diệu Đế cho 5 anh em ông Kiều Trần Như. Sau đó, họ đều giác ngộ, chứng Thánh quả và trở thành những vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên. Bấy giờ, Tăng được hình thành.
Tứ diệu đế của Phật giáo gồm những gì?
Tứ diệu đế bao gồm Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.
Khổ đế
Chân lý thứ nhất - Khổ đế là thực tại đau khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa lìa là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ, chấp vào thân năm uẩn là khổ và cuối cùng là sầu bi, ưu phiền khổ não. Đây là thánh đế thứ nhất, là sự thật đầu tiên mà chúng ta phải tiếp nhận, gọi là khổ đế.
1. Sinh là khổ
Khi mang thai, người mẹ và thai nhi ở trong bụng đều có những nỗi khổ. Thai nhi ở trong bụng mẹ như trong ngục tù, chín tháng tối tăm, nhầy nhụa, chịu đựng đủ thứ nóng lạnh. Mẹ ăn nóng thì con bị nóng, mẹ ăn lạnh thì con bị lạnh. Người mẹ khi ấy cũng không sung sướng gì, rất nặng nề, vất vả, mệt nhọc.
Hơn thế nữa, cửa sinh cũng là cửa tử, có không ít trường hợp người phụ nữ vì sinh con mà phải mất mạng, thậm chí mất cả mẹ lẫn con. Đứa trẻ khi ra đời phải tiếp xúc với môi trường bên ngoài rất đau, rất rát, rất khác lạ nên chào đời là khóc.
Sau khi sinh ra, để nuôi sống được thân tứ đại cũng rất cực khổ, phải ngày đêm làm lụng vất vả. Tứ đại: đất, nước, gió, lửa luôn tranh đấu với nhau sinh ra vô vàn bệnh trên thân chúng ta. Nước mạnh thì gây nên bệnh phù thũng, địa mạnh thì sinh bệnh trì trệ, bệnh phì, hỏa mạnh thì sinh ra bệnh gầy mòn, phong mạnh thì sinh ra đau nhức. Cho nên, để nuôi dưỡng thân này là vô cùng cực khổ, ngày ngày phải điều hòa thân thể. Hôm nay người mình nóng phải ăn đồ mát, người mình khát phải uống bù nước, mình bị táo bón phải ăn đồ nhuận tràng,… Chỉ cần có một đại nào trồi lên cũng sẽ rất khổ. Bởi vậy, sinh ra đời là khổ.
2. Già là khổ
Khi tới tuổi 50, 60, 70, chúng ta bắt đầu thấm thía già là khổ, bởi khi ấy cơ thể bắt đầu suy yếu: mắt mờ, tai điếc, tay mỏi, gối chùn, lưng còng, đãng trí, parkinson… Và không chỉ thân thể mà tâm trí chúng ta cũng nhiều phiền não khi phải đối mặt với nỗi lo sợ tuổi già mất dần đi giá trị.
3. Bệnh là khổ
Bệnh là khổ nên chẳng ai muốn mình mang bệnh. Chúng ta mắc những căn bệnh do virus bên ngoài xâm nhập, do môi trường, thức ăn độc hại; cũng có những căn bệnh từ ngay thân mình sinh ra, như ung, nhọt tự thân kết ở trong người khiến chúng ta vô cùng đau đớn.
Không một ai không trải qua bệnh, không bệnh nọ cũng bệnh kia, ai trong đời cũng đều có bệnh, đều thấy rất đau khổ và sợ hãi.
4. Chết là khổ
Chết là chấm hết cuộc đời, bao nhiêu đều buông bỏ, để lại hết, hai tay trắng ra đi nhưng không biết đi đâu, con đường phía trước tối tăm, mịt mờ.
Việc chết cũng giống như đang đêm có người đuổi ra khỏi nhà mà mình lại không biết phải đi đâu nên bản thân sẽ thấy rất sợ. Ngược lại, nếu đuổi đi mà biết nơi mình sẽ đến, biết đường sẽ đi thì không còn sợ nữa. Mặt khác, chết là bỏ lại tất cả: Công danh, địa vị, tài sản, vợ con, thân thể mình. Cho nên, chết là một sự khổ lớn của chúng sinh. Tuy nhiên, sự thật của cuộc đời là ai cũng phải chết.
5. Ái biệt ly khổ
Việc phải xa lìa những người mình yêu thương, quý mến là rất khổ. Trong gia đình, cha mẹ li thân, li dị, mình khổ. Hoặc bạn bè, người yêu của mình phải chuyển đi công tác xa, hay đi nước ngoài, mình đều khổ.
Muốn làm sao để người thân, người yêu ở bên cạnh mình nhưng sự đời không được thế mà thường trái ý mình.
6. Oán tắng hội khổ
Nỗi khổ thứ sáu là dù ghét nhau mà vẫn phải chạm mặt. Không hiểu lý do vì sao mà người mình không ưa, mình ghét lại hay ở gần mình. Đó cũng là nỗi khổ của chúng ta.
7. Cầu bất đắc khổ
Chúng ta mong cả trăm nghìn điều, đi chùa, đi đền, đi phủ khấn vái nhưng không được toại ý là khổ. Có khi cầu lại nhận phải điều trái ngược mà không được như ý, khiến khổ chồng thêm khổ.
Những mong muốn ở đời như công danh, tiền bạc, tình yêu, con cái,... mà không được như ý, đều khiến chúng ta khổ.
8. Ngũ ấm xí thịnh khổ
Ngũ ấm bao gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu ngũ ấm cường thịnh quá cũng khổ, mà suy quá cũng khổ. Nơi thân tâm chúng ta sinh ra rất nhiều điều phiền muộn, nỗi buồn bâng quơ, những suy nghĩ vu vơ, tự nhiên trong lòng thấy buồn chán không biết nguyên nhân vì sao. Đó là thân ngũ ấm bừng cháy, những ham muốn của thân tâm không được thỏa mãn sẽ khiến ta đau khổ. Chúng ta bị chính thân này thiêu đốt ngày đêm, hàng ngày bởi tất cả dục vọng ham muốn, làm cho chúng ta khổ.
Ví dụ: Lưỡi lúc nào cũng thèm vị (với cảm thọ cường thịnh) thì khổ, mà lưỡi không thể nếm được mùi vị cũng khổ; hoặc trong đầu nhiều suy nghĩ, tư tưởng quá thì loạn, mà ít quá lại không thể tư duy ra vấn đề cũng khổ;...
Để cảm nhận, thấu tỏ được những sự khổ ở đời trong khổ đế chúng ta cần tư duy, nhận biết và hiểu sâu sắc về những nỗi khổ mà chúng ta gặp phải trong đời. Những điều chúng ta cho là vui sướng, khoái lạc, hạnh phúc thật sự là giả tạm, không có thật. Nó chỉ là biến thể của cái khổ, giảm khổ, không phải là hạnh phúc chân thật.
Đức Phật nói rằng đời người gần như ai cũng trải qua tám cái khổ lớn này. Và bên cạnh đó còn vô vàn những cái khổ khác. Người tu, người học Phật mà không thẩm thấu cái khổ thì chưa phải là học Phật.
Tập đế
Chân lý thứ hai trong Tứ Thánh đế mà Đức Phật dạy là Tập đế. “Tập” là nguyên nhân tích tập, hội tụ lâu ngày mà thành; còn “đế” là sự thật. “Tập đế” là sự thật về các nguyên nhân dẫn đến đau khổ của chúng sinh.
Nguyên nhân dẫn đến đau khổ là vô minh và ái dục. Ái dục là tham đắm, bám víu vào ngũ dục lục trần. Vô minh là chấp thủ về cái ta, cái của ta; chấp thủ về tôi, cái của tôi; bám chấp vào nó, cho rằng có một cái tôi, cái ta thật. Vô minh và ái dục là gốc sâu xa để sinh ra quả khổ cho chúng ta ở đời này.
Diệt đế trong tứ diệu đế
Chân lý thứ ba là Diệt đế. Chữ “diệt” là chết, diệt hết, không còn. Diệt đế ở đây Đức Phật dạy: sự thật về diệt hết khổ.
Diệt đế này còn gọi là Niết-bàn. Niết-bàn là vắng bóng của tất cả mọi khổ đau. Các khổ đau đã diệt tận, các phiền não diệt hết sạch sẽ, ở đó không còn một chút khổ đau nào cả.
Đạo đế
Chân lý thứ tư gọi là Đạo đế, “đạo” là con đường - tức là con đường để đi đến Niết-bàn, đến chỗ diệt hết khổ, là phương pháp, là cách thức để đi đến chỗ diệt hết khổ đau.
Đức Phật từng dạy rằng: Sự thật thứ tư là con đường diệt khổ cho tất cả chúng sinh. Gọi là con đường thực hành tám điều - tức là Bát Chính Đạo.
- Thứ nhất là chính tri kiến. Tức là hiểu biết chân chính, nhận thức một cách chân chính, đúng đắn. Chúng ta phải lấy con mắt chính tri kiến để mà xem xét sự vật, hiện tượng.
- Thứ hai là chính tư duy, tức là suy nghĩ đúng đắn dựa trên cơ sở của chính kiến, từ nhận thức ban đầu chính kiến chúng ta phải tư duy đúng đắn.
- Thứ ba là chính ngữ là lời nói chân chính. Từ tư duy đến ngôn ngữ, tư duy chân chính mới có thể nói lời chân chính, lợi ích; không nói những lời ác, lời tổn hại.
- Thứ tư là chính nghiệp. Tức là tạo nghiệp chân chính. Chúng ta có ba nghiệp ở nơi thân tâm này: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Tức là chính tâm để tu thân. Từ tâm ngay chính mà khiến cho thân, hành vi, lời nói, ý nghĩ ngay chính.
- Thứ năm là chính mạng. Tức là nuôi sống mạng sống của mình chân chính, không bằng những nghề nghiệp ác, nghề nghiệp tà.
- Thứ sáu là chính tinh tấn, là nỗ lực, chăm chỉ một cách đúng đắn.
- Thứ bảy là chính niệm. Nghĩa là suy nghĩ, nhớ nghĩ những điều đúng đắn.
- Thứ tám là chính định.
Tám điều trên gọi là Bát chính đạo, là con đường dẫn chúng ta đạt được Niết-bàn, hết khổ đau.
Mong rằng bài viết trên sẽ giúp quý vị hiểu rõ hơn về Tứ diệu đế - bốn chân lý màu nhiệm giúp mỗi chúng ta giải thoát khỏi khổ đau. Từ đó biết ứng dụng lời Phật dạy, lấy Tứ diệu đế làm “ngọn đèn” để tu tập hướng đến con đường giác ngộ, an vui.
Nếu còn điều gì thắc mắc, quý độc giả có thể để lại bình luận dưới bài viết hoặc gửi về chuyên mục hỏi đáp để được giải đáp. Kính chúc quý vị mạnh khỏe, an lạc!
Pháp thoại: Lời nguyện tiền kiếp của Xá Lợi Phất và Mục Kiều Liên
Pháp thoại: Lời nguyện tiền kiếp của Xá Lợi Phất và Mục Kiều Liên. Kính mời quý nhân dân Phật tử đón xem!
07/05/2024 2615
Xem thêm
Tổng hợp những lời chúc Vu Lan chạm đến trái tim dành tặng cha mẹ
Top các bài hát vu lan báo hiếu khiến bạn xúc động khi nhớ về cha mẹ
Lý giải về tháng cô hồn: Điều kiêng kỵ tháng cô hồn có đúng không?
Cách cúng Rằm tháng 7 - Cúng thế nào để mang lại bình an cho gia chủ?
Vu Lan báo hiếu: Cơ hội tạo phước lớn để thực hành báo hiếu cha mẹ